theo dõi

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)



1
Anh minh và nhân ái,
Đức vua Trần Nhân Tông,
Một ông vua vĩ đại,
Sống mãi cùng non sông.  

Không chỉ vua, hơn thế,
Ngài còn là Phật Hoàng,
Lập Trúc Lâm Yên Tử,
Mở một kỷ nguyên vàng.

Ngài là con trai trưởng
Đức vua Trần Thánh Tông.
Trần Khâm là tên húy,
Anh hùng chống Nguyên Mông.



Năm một hai bảy tám,
Nhận ngôi từ vua cha,
Đúng lúc giặc Mông Cổ
Lại đe dọa nước nhà.

Thế lực giặc rất lớn,
Không ít người nản lòng,
Nhưng Ngài quyết chủ chiến,
Mở Hội nghị Diên Hồng.      

Ngài là người đoàn kết
Sức mạnh toàn quốc gia.
Lòng tự hào dân tộc
Nhờ đó mà thăng hoa.

Được Thánh Tông giúp sức,
Ngài lãnh đạo nhân dân
Đánh thắng quân xâm lược
Liên tục cả hai lần.  
              
Tháng Tư năm Ất Dậu,
Tức một hai tám năm,
Ngài sai Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản mang quân

Đánh giặc ở Tây Kết,
Suýt bắt sống Thoát Hoan,
Rồi sau đó thắng lớn
Ở cửa Hàm Tử Quan.

Năm một hai hai tám,
Sau trận thắng Bạch Đằng,
Mở Thái Bình Diên Yến,
Ba ngày ba đêm trăng.  

Quân Ai Lao lúc đó
Cũng thường quấy nước ta.
Đích thân Ngài gươm giáo
Lên đường chinh phạt xa.

Cương quyết không để mất
Một tấc đất tiền nhân.
Bằng mọi giá phải giữ.
Ngài nói thế nhiều lần.  

Để kết tình hòa hiếu,
Ngài gả con Huyền Trân,
Công chúa Ngài yêu quí,
Cho vua Chiêm Chế Mân.

Nước Đại Việt từ đó
Có thêm được mấy châu,
Đất rộng, người thưa thớt
Nhưng tài nguyên rất giàu.

Xong việc, năm Quý Tỵ,
Tức một hai chín ba,
Ngài nhường con ngôi báu,
Cùng gánh vác sơn hà.

Năm một hai chín chín,
Ngài xuất gia tu hành
Ở Vũ Lâm cung cấm,
Nay thuộc tỉnh Ninh Bình.

Rồi Ngài đến Yên Tử,
Niệm kinh và tưới hoa,
Lập dòng thiền đất Việt,
Hiệu Trúc Lâm Đầu Đà.

Trong Trúc Lâm Tam Tổ,
Ngài là vị tổ đầu,
Pháp Loa là tổ tiếp,
Huyền Quang tổ về sau.  

Năm một ba không tám,
Tức là năm Mậu Thân,
Ở Ngọa Vân, Yên Tử
Ngài từ giã cõi trần.

Ngài từ người thành Phật
Sau tám năm xuất gia.
Chết, xá lị được giữ
Như báu vật nước nhà.

Tro Ngài được an táng
Và hậu thế tôn thờ
Trong tháp lăng Quí Đức,
Tỉnh Thái Bình bây giờ.

2
Theo sử sách kể lại,
Một lần về Thăng Long,
Ngài rất buồn khi thấy
Con mình, Trần Anh Tông,

Trình Ngài bản danh sách
Hàng trăm quan nhỏ to
Mới được vua cất nhắc,
Tưởng Ngài vui, ai ngờ,

Ngài vứt tờ giấy ấy,
Vỗ vai con, và rồi
Nói: Nước mình bé nhỏ,
Nhiều quan, lấy ai nuôi?

Đó là bài học lớn
Về trị nước, yên dân.
Quan nhiều là gánh nặng,
Khiến đất nước nghèo dần.

3
Ngài là vua, là Phật,
Lại còn là nhà thơ.
Ba lăm bài tuyệt tác
Còn lưu đến bây giờ.  

Đó là thơ tứ tuyệt
Và một số thơ Đường,
Về thiên nhiên, thiền phật,
Về lẽ sống đời thường.

4
Theo sử sách kể lại,
Lên Yên Tử, dọc đường
Ngài bị ba tên cướp
Cầm giáo ra chặn đường.

Ngài ôn tồn hỏi chúng,
Mới biết nghèo, làm liều,
Rồi lấy, đem cho chúng
Suất cơm Ngài mang theo.

Khi đến một quả núi
Có hình như mâm xôi,
Định ăn thì sực nhớ
Suất cơm cho mất rồi.

Ngài đành bảo Bảo Sái,
Người hầu luôn theo Ngài,
Xuống suối lấy nước uống
Thay cơm cho cả hai.

Về sau ở núi ấy,
Có ngôi chùa, trước sân
Ghi hai chữ “Cấm Thực”,
Tức là chùa không ăn.

Khi Ngài lên Yên Tử,
Một mình giữa rừng sâu,
Triều đình sợ Ngài khổ,
Cho cung nữ theo hầu.

Ngài không chịu, bảo họ
Nếu muốn, trở về quê.
Nhưng tất cả cung nữ
Nhảy xuống suối Hổ Khê  

Để tỏ lòng thương mến
Và trung thành với Ngài.
Con suối ấy sau đó
Đổi thành Giải Oan Đài.

Khi tu ở Yên Tử,
Ngài thường leo hàng ngày
Lên đỉnh núi cao nhất,
Bốn mùa chìm trong mây.

Ngài cho xây ở đấy
Chiếc am nhỏ Ngọa Vân,
Nơi Ngài thiền, đọc sách,
Hưởng cái thú thanh bần.

Khi Ngài sắp viên tịch,
Trời mưa gió dầm dề.
Mồng ba, tháng Mười Một,
Bỗng gió lặng, trời se.  

Ngài liền hỏi Bảo Sái:
“Giờ này là giờ gì?”
“Bạch thầy, là giờ Tý”.
“Đã đến giờ ta đi”.

Nói xong, Ngài viên tịch,
Nằm nghiêng như Phật nằm,
Ở ngay trong am núi,
Nơi Ngài tu tám năm.

Pháp Loa, theo di chúc,
Thiêu xác Ngài, lát sau
Thấy nghìn viên xá lị
Lung linh đủ các màu.  



THƠ TRẦN NHÂN TÔNG

Xuân sớm

Sáng dậy vén rèm cửa.
Xuân đã đứng cạnh nhà.
Đôi bướm nhỏ cánh trắng
Chấp chới bay tìm hoa.


Trên hồ Động Thiên

Động Thiên cảnh tiêu điều:
Hoa héo, cỏ cây xiêu.
May trời thương, thỉnh thoảng
Ban cho tiếng chuông chiều.


Tiễn sứ bắc Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai

Tiễn đưa quyến luyến cạnh Linh Trì.
Gió xuân không giữ được người đi.
Không biết sao lành hai sứ bắc
Thêm được mấy ngày chiếu Nam di?


Cảnh xuân

Chim kêu trong khóm liễu sau nhà.
Bóng chiều rụng nhẹ xuống thềm hoa.
Khách quý đến chơi không hỏi chuyện,
Chỉ cùng chủ đứng, ngắm mây xa.


Đêm mười một tháng Hai

Rượu quý rửa hồn, hương ngất ngây.
Giường rồng, chiếu trúc, giấc xuân say.
Bên song hoa nở, trời như nước.
Ngoài hiên trăng sáng tựa ban ngày.


Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường

Xóm nhỏ chìm trong khói ráng hồng.
Cảnh chiều nửa có, nửa như không.
Trẻ giục trâu về, vui thổi sáo.
Cò trắng từng đôi đậu xuống đồng.


Trăng

Đèn soi song cửa, sách đầy giường.
Đêm lạnh, bên ngoài sân ướt sương.
Tiếng chày đập vải làm thức giấc.
Trăng vướng cành hoa, mù vấn vương.


Cảnh chiều ở Châu Lạng

Chùa cổ mờ mờ trong khói mây.
Chuông điểm, dây thuyền buộc gốc cây.
Núi lặng, nước trong, nghiêng cánh nhạn.
Lá đỏ, mây buồn lưu luyến bay.


Thơ đề ở nhà thủy tạ Phổ Minh

Nhà trên mặt nước, thoảng mùi hương.
Chùa đóng, cây đa đứng vệ đường.
Hồ nước mới dâng, không lạnh lắm.
Theo tiếng ve sầu, thu vấn vương.


Mạn hứng khi ở trên núi

Đúng sai rốt cuộc như hoa rụng.
Hết mưa, hết muốn lợi và danh.
Sau tiếng chim kêu, xuân lại úa.
Hoa tàn, mây tạnh, núi xanh xanh.


Thanh nhàn

Sống nơi yên tĩnh, thảnh thơi lòng.
Xạc xào gió thổi giữa cành thông.
Chiếu trải dưới cây, kinh một quyển.
Thanh nhàn hai chữ có hơn không?


Lên núi Bảo Đài

Đất vắng, đài thêm cổ.
Trời đẹp, mới chớm xuân.
Ngõ, nửa râm, nửa nắng,
Mây nửa xa, nửa gần.
Việc trôi như nước cuốn.
Lòng nhủ lòng bao lần.
Tựa hiên, nâng sáo ngọc.
Trăng bàng bạc ngoài sân.


Phủ Thiên Trường

Quạnh hiu lá đỏ, núi xanh, vàng.
Sau mưa đường sạch, trời mây quang.
Các sư về viện, trai đường vắng.
Nửa đêm, trăng đã xế trên làng.
Ba chục cung tiên, giường xếp dọc.
Tám nghìn ngọn tháp, nước âm vang.
Phổ Minh chùa cổ không thay đổi.
Trong mơ bất chợt nhớ tiên hoàng.


Chùa Thần Quang trên núi Đại Lâm

U nhã Thần Quang, vắng suốt ngày.
Giữa vùng rừng núi phủ đầy mây.
Ba nghìn thế giới thu vào mắt.
Mười hai tòa tháp tựa trên tay.
Cây thông trăm tuổi, sư đầu bạc.
Bèo bọt thói đời cứ đổi thay.
Ngoài việc thắp hương và cúng Phật,
Hết thảy mọi điều sư chẳng hay.



HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

Mấy trăm năm về trước
Đất nước ta thân yêu
Có tên là Đại Việt,
Diện tích bé hơn nhiều.

Có một vương quốc cổ
Ở miền Trung ngày nay.
Chiêm Thành là tên gọi.
Rất hung hãn nước này.

Còn vùng đất Nam Bộ
Của chúng ta bây giờ
Lại thuộc một nước khác,
Cũng vào loại đáng ngờ.

Thời ấy vua Đại Việt
Có công chúa Huyền Trân,
Không thể nói xinh đẹp,
Mà phải nói tuyệt trần.

Nàng yêu một dũng tướng
Tên là Nguyễn Khắc Chung.
Chàng có tài, còn trẻ,
Cũng yêu nàng vô cùng.

Nghe tiếng nàng xinh đẹp,
Vua Chiêm Thành, Chế Mân,
Liền cho người đem lễ
Dâng vua Việt, cầu thân.  

Quà cầu hôn còn có
Hai vùng đất rất to,
Trù phú, dân thưa thớt,
Là Châu Lý, Châu Ô.

Công chúa buồn, đau khổ
Khi nghe tin bố mình
Quyết định gả con gái
Cho vua nước Chiêm Thành.

Yêu Khắc Chung tha thiết,
Nhưng nàng hiểu vua cha
Làm thế là chủ ý
Vì đại sự quốc gia.

Thế là nàng gạt lệ
Chia tay cùng Khắc Chung
Để lên đường Nam tiến,
Vượt muôn núi chập chùng.

Chỉ ít năm sau đó
Vua Chế Mân qua đời.
Theo tục lệ bản xứ,
Hoàng hậu phải là người

Lên dàn thiêu chịu chết
Để hồn đi theo chồng.
Một tục lệ man rợ
Của nhiều nước phương Đông.

Đắc Chung nghe tin dữ
Đem mấy nghìn tinh binh
Đi ngày đêm không nghỉ
Tới kinh đô Chiêm Thành.  

Dẫu ở trong lòng địch,
Quân mình ít, địch đông,
Chàng cướp được công chúa,
Đưa về thành Thăng Long.

Từ đó họ hạnh phúc
Ở bên nhau trọn đời.
Gương Huyền Trân Công chúa
Sống mãi trong lòng người.
Nguồn Blog Thái Bá Tân

1 nhận xét:

Đăng một nhận xét