theo dõi

Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

Toàn văn Luật biển Việt Nam 2012

.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII tại phiên họp cuối ngày 21-6-2012 của kỳ họp thứ ba đã bỏ phiếu thông qua Luật Biển với số phiếu tán thành là 495/496.
Luật Biển Việt Nam có bảy chương, 55 điều với việc xác định chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa…được ghi ngay trong điều 1. Luật Biển bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-2013.
Đây là một sự kiện lớn, một tin vui lớn, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình phát triển đất nước hiện nay, thỏa mãn tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Luật Biển là một văn kiện pháp lý vô cùng quan trọng và cần thiết của đất nước ta để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển quốc gia, tạo cơ sở và hành lang pháp lý cao nhất cho mọi công việc sử dụng, khai thác và bảo vệ vùng biển nước nhà.
Những nội dung chính của Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam gồm có bảy chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013.
Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.
Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo…
Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…
Chương 4 của Luật Biển Việt Nam dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.
Chương 5 của Luật quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.
Chương 6 quy định về xử lý vi phạm. Chương này bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý vi phạm.
Chương 7 quy định về điều khoản thi hành.
_________________________________________________________
Toàn văn Nội dung Luật Biển Việt Nam:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Quốc Hội
LUẬT BIỂN VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật biển Việt Nam.
CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Điều 2. Áp dụng pháp luật
1. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.
2. Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
2. Vùng biển quốc tế là tất cả các vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác, nhưng không bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
3. Tàu thuyền là phương tiện hoạt động trên mặt nước hoặc dưới mặt nước bao gồm tàu, thuyền và các phương tiện khác có động cơ hoặc không có động cơ.
4. Tàu quân sự là tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài thể hiện rõ quốc tịch của quốc gia đó, do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương; được điều hành bởi thuỷ thủ đoàn hoạt động theo các điều lệnh kỷ luật quân sự.
5. Tàu thuyền công vụ là tàu thuyền chuyên dùng để thực hiện các công vụ của Nhà nước không vì mục đích thương mại.
6. Tài nguyên bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật thuộc khối nước, đáy và lòng đất dưới đáy biển.
7. Đường đẳng sâu là đường nối liền các điểm có cùng độ sâu ở biển.
Điều 4. Nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển
1. Quản lý và bảo vệ biển được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
3. Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.
Điều 5. Chính sách quản lý và bảo vệ biển
1. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển.
2. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh.
3. Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính sách, pháp luật về biển.
4. Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam ngoài các vùng biển Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia ven biển có liên quan.
5. Đầu tư bảo đảm hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển, đảo và quần đảo, phát triển nguồn nhân lực biển.
6. Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo.
Điều 6. Hợp tác quốc tế về biển
1. Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi.
2. Nội dung hợp tác quốc tế về biển bao gồm:
a) Điều tra, nghiên cứu biển, đại dương; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ;
b) Ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống và cảnh báo thiên tai;
c) Bảo vệ đa dạng sinh học biển, hệ sinh thái biển;
d) Phòng chống ô nhiễm môi trường biển, xử lý chất thải từ hoạt động kinh tế biển, ứng phó sự cố tràn dầu;
đ) Tìm kiếm, cứu nạn trên biển;
e) Phòng, chống tội phạm trên biển;
g) Khai thác bền vững tài nguyên biển, phát triển du lịch biển.
Điều 7. Quản lý nhà nước về biển
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về biển trong phạm vi cả nước.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về biển.
CHƯƠNG II: VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Điều 8. Xác định đường cơ sở
Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Điều 9. Nội thuỷ
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.
Điều 10. Chế độ pháp lý của nội thuỷ
Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền.
Điều 11. Lãnh hải
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Điều 12. Chế độ pháp lý của lãnh hải
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
Điều 13. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.
Điều 14. Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải.
2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
Điều 15. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Điều 16. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện:
a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế;
b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
2. Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
4. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Luật này.
Điều 17. Thềm lục địa
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lýtính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Điều 18. Chế độ pháp lý của thềm lục địa
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 19. Đảo, quần đảo
1. Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước.
Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
2. Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Điều 20. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo
1. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
2. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
3. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các điều 9, 11, 13, 15 và 17 của Luật này và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê toạ độ địa lý do Chính phủ công bố.
Điều 21. Chế độ pháp lý của đảo, quần đảo
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền trên đảo, quần đảo của Việt Nam.
2. Chế độ pháp lý đối với vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được thực hiện theo quy định tại các điều 10, 12, 14, 16 và 18 của Luật này.
CHƯƠNG III: HOẠT ĐỘNG TRONG VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Điều 22. Quy định chung
1. Tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phải tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia của Việt Nam, tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của tàu thuyền, tổ chức, cá nhân hoạt động trong vùng biển Việt Nam phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 23. Đi qua không gây hại trong lãnh hải
1. Đi qua lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhằm một trong các mục đích sau:
a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy Việt Nam, không neo đậu lại trong một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam;
b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy Việt Nam hay đậu lại hoặc rời khỏi một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam.
2. Việc đi qua lãnh hải phải liên tục và nhanh chóng, trừ trường hợp gặp sự cố hàng hải, sự cố bất khả kháng, gặp nạn hoặc vì mục đích phải cứu giúp người, tàu thuyền hay tàu bay đang gặp nạn.
3. Việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam;
b) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc;
c) Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào;
d) Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
đ) Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền;
g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền;
h) Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh;
i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển;
k) Đánh bắt hải sản trái phép;
l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép;
m) Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam;
n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua.
Điều 24. Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua không gây hại
1. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung sau đây:
a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông;
b) Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công trình khác;
c) Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn;
d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;
đ) Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản;
e) Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển;
g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;
h) Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh.
2. Thuyền trưởng tàu thuyền nước ngoài chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hoặc nguy hiểm, khi đi trong lãnh hải Việt Nam có nghĩa vụ sau đây:
a) Mang đầy đủ tài liệu kỹ thuật liên quan tới tàu thuyền và hàng hóa trên tàu, tài liệu về bảo hiểm dân sự bắt buộc;
b) Sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam mọi tài liệu liên quan đến thông số kỹ thuật của tàu thuyền cũng như của hàng hóa trên tàu;
c) Thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa đặc biệt đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên áp dụng đối với các loại tàu thuyền này;
d) Tuân thủ quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam về việc áp dụng biện pháp phòng ngừa đặc biệt, kể cả cấm không được đi qua lãnh hải Việt Nam hoặc buộc phải rời ngay khỏi lãnh hải Việt Nam trong trường hợp có dấu hiệu hoặc bằng chứng rõ ràng về khả năng gây rò rỉ hoặc làm ô nhiễm môi trường.
Điều 25. Tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại
1. Chính phủ quy định về việc công bố tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại nhằm bảo đảm an toàn hàng hải.
2. Tàu thuyền nước ngoài chở dầu hoặc chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc chuyên chở chất phóng xạ, chất độc hại hay nguy hiểm khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam có thể bị buộc phải đi theo tuyến hàng hải quy định cụ thể cho từng trường hợp.
Điều 26. Vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải
1. Để bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia hoặc an toàn hàng hải, bảo vệ tài nguyên, sinh thái biển, chống ô nhiễm, khắc phục sự cố, thảm họa môi trường biển, phòng chống lây lan dịch bệnh, Chính phủ thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam.
2. Việc thiết lập vùng cấm tạm thời hoặc vùng hạn chế hoạt động trong lãnh hải Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều này phải được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế trong “Thông báo hàng hải”, theo tập quán hàng hải quốc tế, chậm nhất là 15 ngày trước khi áp dụng hoặc thông báo ngay sau khi áp dụng trong trường hợp khẩn cấp.
Điều 27. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam
1. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài chỉ được đi vào nội thủy, neo đậu tại một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hoặc công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam theo lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với quốc gia mà tàu mang cờ.
2. Tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài khi ở trong nội thủy, cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hoặc các công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác và phải hoạt động phù hợp với lời mời của Chính phủ Việt Nam hoặc thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Điều 28. Trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam
Tàu quân sự của nước ngoài khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền yêu cầu các tàu thuyền đó chấm dứt ngay hành vi vi phạm, rời khỏi lãnh hải Việt Nam ngay lập tức nếu đang ở trong lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền vi phạm phải tuân thủ các yêu cầu, mệnh lệnh của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam.
Trường hợp tàu quân sự, tàu thuyền công vụ của nước ngoài hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật quốc tế có liên quan thì quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất hoặc thiệt hại do tàu thuyền đó gây ra cho Việt Nam.
Điều 29. Hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thuỷ, lãnh hải Việt Nam
Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài phải hoạt động ở trạng thái nổi trên mặt nước và phải treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ.
Điều 30. Quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài
1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam.
2. Đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra trong các trường hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc phạm tội ảnh hưởng đến Việt Nam;
b) Việc phạm tội có tính chất phá hoại hòa bình của Việt Nam hay trật tự trong lãnh hải Việt Nam;
c) Thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam;
d) Để ngăn chặn hành vi mua bán người, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.
3. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam để bắt giữ người hay điều tra việc phạm tội đã xảy ra trước khi tàu thuyền đó đi vào lãnh hải Việt Nam nếu như tàu thuyền đó xuất phát từ một cảng nước ngoài và chỉ đi trong lãnh hải mà không đi vào nội thủy Việt Nam, trừ trường hợp cần ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm môi trường biển hoặc để thực hiện quyền tài phán quốc gia quy định tại điểm b khoản 1 Điều 16 của Luật này.
4. Việc thực hiện biện pháp tố tụng hình sự phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 31. Quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được buộc tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải phải dừng lại hoặc thay đổi hành trình chỉ vì mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự đối với cá nhân đang ở trên tàu thuyền đó.
2. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển không được tiến hành các biện pháp bắt giữ hay xử lý về mặt dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam, trừ nội thủy, trừ trường hợp việc thi hành các biện pháp này liên quan đến nghĩa vụ đã cam kết hay trách nhiệm dân sự mà tàu thuyền phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển Việt Nam.
3. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp bắt giữ hay xử lý tàu thuyền nước ngoài nhằm mục đích thực hiện quyền tài phán dân sự nếu tàu thuyền đó đang đậu trong lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam.
Điều 32. Thông tin liên lạc trong cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân và tàu thuyền khi ở trong các cảng, bến hay nơi trú đậu trong nội thuỷ hay trong công trình cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam ở bên ngoài nội thủy Việt Nam chỉ được tiến hành thông tin liên lạc theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 33. Tìm kiếm, cứu nạn và cứu hộ
1. Trường hợp người, tàu thuyền hoặc phương tiện bay gặp nạn hoặc nguy hiểm trên biển cần sự cứu giúp thì phải phát tín hiệu cấp cứu theo quy định và khi điều kiện cho phép phải thông báo ngay cho cảng vụ hàng hải hay Trung tâm phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải Việt Nam hay nhà chức trách địa phương nơi gần nhất biết để được giúp đỡ, hướng dẫn cần thiết.
2. Khi nhận biết tình trạng người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm hay nhận được tín hiệu cấp cứu của người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần được cứu giúp, mọi cá nhân, tàu thuyền khác phải bằng mọi cách tiến hành cứu giúp người, tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm nếu điều kiện thực tế cho phép và không gây nguy hiểm đến tàu thuyền, những người đang ở trên tàu thuyền của mình và kịp thời thông báo cho cá nhân, tổ chức liên quan biết.
3. Nhà nước bảo đảm sự giúp đỡ cần thiết theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế có liên quan và trên tinh thần nhân đạo để người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm trên biển có thể nhanh chóng được tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả.
4. Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
5. Lực lượng có thẩm quyền có quyền huy động cá nhân, tàu thuyền đang hoạt động trong vùng biển Việt Nam tham gia tìm kiếm, cứu nạn nếu điều kiện thực tế cho phép và không gây nguy hiểm cho cá nhân, tàu thuyền đó.
Việc huy động và yêu cầu quy định tại khoản này chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn cấp và chỉ trong thời gian cần thiết để thực hiện công tác tìm kiếm, cứu nạn.
6. Việc cứu hộ hàng hải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng cứu hộ hàng hải theo thỏa thuận giữa chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng tàu thuyền tham gia cứu hộ với chủ tàu thuyền hoặc thuyền trưởng của tàu thuyền gặp nạn, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
7. Tàu thuyền nước ngoài vào vùng biển Việt Nam thực hiện việc tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 34. Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển
1. Đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển bao gồm:
a) Các giàn khoan trên biển cùng toàn bộ các bộ phận phụ thuộc khác đảm bảo hoạt động bình thường và liên tục của các giàn khoan hoặc các thiết bị chuyên dùng để thăm dò, khai thác và sử dụng biển;
b) Các loại báo hiệu hàng hải;
c) Các thiết bị, công trình khác được lắp đặt và sử dụng ở biển.
2. Nhà nước có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, bao gồm cả quyền tài phán theo các quy định của pháp luật về hải quan, thuế, y tế, an ninh và xuất nhập cảnh, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
3. Các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển và các bộ phận kèm theo hoặc phụ thuộc có vành đai an toàn 500 mét tính từ điểm nhô ra xa nhất của đảo, thiết bị, công trình hoặc các bộ phận đó, nhưng không có lãnh hải và các vùng biển riêng, trừ trường hợp pháp luật hay điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
4. Không xây dựng đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển cũng như không thiết lập vành đai an toàn xung quanh đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển ở nơi có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
5. Khi hết hạn sử dụng, thiết bị, công trình trên biển phải được tháo dỡ khỏi vùng biển Việt Nam, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đối với phần còn lại của thiết bị, công trình trên biển chưa kịp tháo dỡ hoàn toàn vì lý do kỹ thuật hoặc được phép gia hạn thì phải thông báo rõ vị trí, kích thước, hình dạng, độ sâu và phải đặt các tín hiệu, báo hiệu hàng hải và nguy hiểm thích hợp.
6. Thông tin liên quan tới việc thiết lập đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển, việc thiết lập vành đai an toàn xung quanh và việc tháo dỡ một phần hay toàn bộ thiết bị, công trình trên biển phải được cung cấp chậm nhất trước 15 ngày cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và được thông báo rộng rãi trong nước và quốc tế.
Điều 35. Gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển
1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
2. Khi vận chuyển, bốc, dỡ các loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra cho người, tài nguyên và môi trường biển.
3.Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhận chìm hay chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam.
4. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan làm ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường biển trong vùng biển, cảng biển, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam thì bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu gây thiệt hại thì phải làm sạch, khôi phục lại môi trường và bồi thường theo quy định của pháp luật.
5. Tổ chức, cá nhân hoạt động trên các vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản đóng góp về bảo vệ môi trường biển theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
Điều 36. Nghiên cứu khoa học biển
1. Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, chịu sự giám sát của phía Việt Nam, bảo đảm cho các nhà khoa học Việt Nam được tham gia và phải cung cấp cho phía Việt Nam các tài liệu, mẫu vật gốc và các kết quả nghiên cứu liên quan.
2. Khi tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ những quy định sau đây:
a) Có mục đích hòa bình;
b) Được thực hiện với phương thức và phương tiện thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan;
c) Không được gây cản trở đối với các hoạt động hợp pháp trên biển theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có liên quan;
d) Nhà nước Việt Nam có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam và có quyền được chia sẻ các tài liệu, mẫu vật gốc, sử dụng và khai thác các kết quả khoa học thu được từ các hoạt động nghiên cứu, khảo sát đó.
Điều 37. Quy định cấm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
Khi thực hiện quyền tự do hàng hải, tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, tổ chức, cá nhân không được tiến hành các hoạt động sau đây:
1. Đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh của Việt Nam;
2. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, đánh bắt hải sản trái phép;
3. Khai thác trái phép dòng chảy, năng lượng gió và tài nguyên phi sinh vật khác;
4. Xây dựng, lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị, công trình nhân tạo;
5. Khoan, đào trái phép;
6. Tiến hành nghiên cứu khoa học trái phép;
7. Gây ô nhiễm môi trường biển;
8. Cướp biển, cướp có vũ trang;
9. Các hoạt động bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Điều 38. Cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí, chất nổ, chất độc hại
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí hoặc chất nổ, chất độc hại cũng như các loại phương tiện thiết bị khác có khả năng gây hại đối với người, tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển.
Điều 39. Cấm mua bán người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được mua bán người, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy.
2. Khi có căn cứ về việc tàu thuyền, tổ chức, cá nhân đang mua bán người hoặc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền tiến hành khám xét, kiểm tra, bắt giữ, dẫn giải về các cảng, bến hay nơi trú đậu của Việt Nam hoặc dẫn giải, chuyển giao đến các cảng, bến hay nơi trú đậu của nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để xử lý.
Điều 40. Cấm phát sóng trái phép
Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được phát sóng trái phép hoặc tuyên truyền, gây phương hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Điều 41. Quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam nếu các tàu thuyền này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam.
Quyền truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải Viêt Nam nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng.
2. Quyền truy đuổi cũng được áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
3. Việc truy đuổi của các lực lượng tuần tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia khác.
CHƯƠNG IV: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Điều 42. Nguyên tắc phát triển kinh tế biển
Phát triển kinh tế biển bền vững, hiệu quả theo các nguyên tắc sau đây:
1. Phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
2. Gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển.
3. Phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.
4. Gắn với phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo.
Điều 43. Phát triển các ngành kinh tế biển
Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển sau đây:
1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển;
2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác;
3. Du lịch biển và kinh tế đảo;
4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;
5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển;
6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Điều 44. Quy hoạch phát triển kinh tế biển
1. Căn cứ lập quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
a) Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước; chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia;
b) Định hướng chiến lược phát triển bền vững và chiến lược biển;
c) Đặc điểm, vị trí địa lý, quy luật tự nhiên của các vùng biển, vùng ven biển và hải đảo;
d) Kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; thực trạng và dự báo nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển của cả nước, của vùng và của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương;
đ) Giá trị tài nguyên và mức độ dễ bị tổn thương của môi trường biển;
e) Nguồn lực để thực hiện quy hoạch.
2. Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế biển bao gồm:
a) Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng biển;
b) Xác định phương hướng, mục tiêu và định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển;
c) Phân vùng sử dụng biển cho các mục đích phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác có điều kiện, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái và đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên biển;
d) Xác định vị trí, diện tích và thể hiện trên bản đồ các vùng sử dụng mặt biển, đáy biển, đảo;
đ) Xác định cụ thể các vùng bờ biển dễ bị tổn thương như bãi bồi, vùng bờ biển xói lở, rừng phòng hộ, đất ngập nước, cát ven biển, xác định vùng đệm và có các giải pháp quản lý, bảo vệ phù hợp;
e) Giải pháp và tiến độ thực hiện quy hoạch.
3. Chính phủ xây dựng phương án tổng thể phát triển các ngành kinh tế biển quy định tại Điều 43 của Luật này và tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển của cả nước trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Điều 45. Xây dựng và phát triển kinh tế biển
1. Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế, cụm công nghiệp ven biển, kinh tế các huyện đảo theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, phát triển bền vững.
2. Việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều 46. Khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển
1. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới hậu cần biển, phát triển kinh tế các huyện đảo; có chính sách ưu đãi để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư sinh sống trên các đảo.
2. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân đầu tư khai thác tiềm năng và thế mạnh phát triển trên các đảo.
3. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi về thuế, vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tăng cường hoạt động ngư nghiệp và các hoạt động khác trên biển, đảo; bảo vệ hoạt động của nhân dân trên biển, đảo.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
CHƯƠNG V: TUẦN TRA, KIỂM SOÁT TRÊN BIỂN
Điều 47. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm:các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác.
2. Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của tổ chức, cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động.
Điều 48. Nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển
1. Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có nhiệm vụ sau đây:
a) Bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo của Việt Nam;
b) Bảo đảm việc tuân thủ pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
c) Bảo vệ tài sản nhà nước, tài nguyên và môi trường biển;
d) Bảo vệ, giúp đỡ, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ đối với người, tàu thuyền hoạt động trên các vùng biển, đảo của Việt Nam;
đ) Xử lý hành vi vi phạm pháp luật trên các vùng biển, đảo của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Phạm vi trách nhiệm cụ thể của các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển thực hiện theo các quy định pháp luật.
3. Nhà nước bảo đảm những điều kiện cần thiết để các lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Điều 49. Cờ, sắc phục và phù hiệu
Khi thi hành nhiệm vụ, tàu thuyền thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển phải được trang bị đầy đủ quốc kỳ Việt Nam, số hiệu, cờ hiệu; cá nhân thuộc lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển được trang bị đầy đủ quân phục, trang phục của lực lượng cùng với các dấu hiệu đặc trưng khác theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG VI: XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 50. Dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm
1. Căn cứ vào quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ hoặc dẫn giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm.
2. Khi dẫn giải vào bờ để xử lý, người và tàu thuyền vi phạm phải được áp giải về cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất được liệt kê trong danh mục cảng, bến hay nơi trú đậu đã được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công bố theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vì yêu cầu bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của người trên tàu thuyền, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể quyết định dẫn giải người và tàu thuyền vi phạm đó đến cảng, bến hay nơi trú đậu gần nhất của Việt Nam hoặc của nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Điều 51. Biện pháp ngăn chặn
1. Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam; tàu thuyền được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm có thể bị tạm giữ nhằm ngăn chặn việc vi phạm pháp luật hoặc để bảo đảm việc xử lý theo pháp luật.
2. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật; việc tạm giữ tàu thuyền được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 52. Thông báo cho Bộ Ngoại giao
Khi tiến hành bắt, tạm giữ, tạm giam người có hành vi vi phạm pháp luật, hoặc tạm giữ tàu thuyền nước ngoài, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao để phối hợp xử lý.
Điều 53. Xử lý vi phạm
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; cá nhân vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 54. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
Điều 55. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ ba thông qua ngày… tháng… năm 2012.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng (đã ký)
Nguồn: blog Nguyễn Tường Thụy

Trung Quốc phải chấm dứt hành vi gây hấn

Trung Quốc mời thầu dầu khí trên biển Việt Nam
Trung Quốc phải chấm dứt hành vi gây hấn
TT - Xuất hiện trên diễn đàn Hội nghị biển Đông ở Washington (Mỹ), thượng nghị sĩ Mỹ Joe Lieberman đã chỉ trích tham vọng của Trung Quốc và cho rằng đây là nguyên nhân gây bất ổn tại biển Đông.

Thượng nghị sĩ Lieberman (phải) tại Hội nghị biển Đông ở Washington -  Ảnh: Thanh Tuấn
TNS Lieberman đã đề xuất một số nguyên tắc để giải quyết tranh chấp trên biển Đông:
- Đối thoại đa phương.
- Các nước cần phải nhận thức rằng cần giải quyết xung đột dựa trên luật pháp quốc tế chứ không phải bằng cách đọ “cơ sở lịch sử”.
- Trung Quốc cần tìm kiếm sự đồng thuận ngay trong nội bộ nước mình bởi đó là nguyên nhân gây căng thẳng.
- Mỹ cần phê chuẩn UNCLOS.
“Đòi hỏi của Trung Quốc ở biển Đông là quá đáng! - thượng  nghị sĩ (TNS) Lieberman, chủ tịch ủy ban an ninh nội địa Thượng viện Mỹ, khẳng định - Đó chính là hành động gây hấn ban đầu dẫn tới phản ứng đáp trả của các nước khác”. Ông nhấn mạnh việc Trung Quốc khăng khăng đòi áp dụng bản đồ “đường lưỡi bò” là yếu tố gây bất ổn nghiêm trọng. “Tôi hi vọng Trung Quốc nên xuống thang và có những hành động để đem lại hòa bình, ổn định” - ông nói.
Tại hội nghị, một phóng viên Trung Quốc trích tuyên bố của thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc là “Nước nhỏ không nên thách thức nước lớn” nhằm “đổ tội” cho nước khác. Đáp trả luận điệu cố hữu này, TNS Lieberman nêu rõ: “Các nước nhỏ trong khu vực luôn lo ngại về hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông. Bắc Kinh đã có quá nhiều hành động kiểu vậy, từ việc ở bãi cạn Scarborough tới việc cắt cáp tàu VN. Do đó các quốc gia này phải phản ứng. Trung Quốc nên chấm dứt những hành vi kiểu này”.
Bắc Kinh: “Của tôi là của tôi, của anh cũng là của tôi”
Có mặt tại hội nghị, tiến sĩ Trần Trường Thủy thuộc Học viện Ngoại giao VN khẳng định việc VN thông qua Luật biển là phù hợp với Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) và khẳng định lại chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Việc CNOOC mời thầu là “một hành vi gây hấn rất rõ”.
Ông Thủy vạch rõ nguyên tắc gác lại tranh chấp, cùng khai thác của Trung Quốc thực chất luôn là “cái của tôi là của tôi, cái của anh là của tôi và chúng ta sẵn sàng chia sẻ”. Bắc Kinh đơn phương áp đặt cái gọi là “đường lưỡi bò” và vẫn tiếp tục hành động đơn phương theo “đường lưỡi bò”. Cùng lúc, đối với ASEAN, Trung Quốc lại sử dụng chính sách chia để trị, tác động đến các nước không có tranh chấp như Campuchia, Thái Lan, Myanmar và Lào để gây chia rẽ. Việc ASEAN không đưa ra được tuyên bố nào liên quan tới sự cố bãi cạn Scarborough hay ngần ngại việc đưa biển Đông vào chương trình nghị sự phần nào đã phản ánh thực tế này. Còn với Mỹ, theo ông Thủy, thái độ trung lập của Washington trong vấn đề biển Đông trên thực tế không khỏi là vào hùa với kẻ mạnh, gây bất lợi cho các nước yếu.
Mong muốn Washington có lập trường rõ ràng hơn tại biển Đông, học giả Henry Bensurto, cựu tổng thư ký Ủy ban Biển và các vấn đề đại dương của Philippines, đưa ra một hình ảnh: “Cái răng đau thì không chỉ dùng thuốc gây tê mà cần phải nhổ”.
Nhật Bản sẵn sàng cử tàu chiến
Đáng chú ý lần này tại hội nghị là phần tham gia trình bày của đại diện từ Ấn Độ và Nhật Bản. Cả hai đều bày tỏ quan ngại về những hành vi gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông.
Chuyên gia Tetsuo Kotani thuộc Viện Nghiên cứu quốc tế Nhật Bản (JILA) nhấn mạnh điều quan trọng nhất với Nhật Bản là quyền tự do hàng hải bởi tuyến đường hàng hải qua biển Đông cực kỳ quan trọng với nước Nhật. Ông Kotani lo ngại việc Trung Quốc triển khai tàu ngầm hạt nhân trên biển Đông có thể ảnh hưởng tới an ninh hạt nhân châu Á. “Nhật cần tham gia cùng Mỹ để theo dõi các hoạt động của tàu hạt nhân Trung Quốc trên biển Đông” - ông nêu rõ và nhấn mạnh Nhật sẽ tỏ ra rất cứng rắn để bảo vệ quyền lợi quốc gia. “Nếu có xung đột, chúng tôi sẽ phải đưa tàu chiến đến biển Đông để bảo vệ tàu Nhật ở đó” - ông Kotani khẳng định.
Trong khi đó, chuyên gia S. Amer Latif của Ấn Độ kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các quy định của luật quốc tế về các hoạt động trên biển.
THANH TUẤN (Từ Washington DC)
Nguồn: Tuổi trẻ

Bashar al-Assad đang bị “cầm tù” trong lâu đài Thống Nhất vốn là tư dinh của ông.

Ông al-Assad bị giam lỏng?

Website tình báo DEBKAfile vừa loan tin Tổng thống Syria

Website trên dẫn các nguồn tin tình báo phương Tây cho rằng ông Assad và các thành viên trong gia đình không thể rời lâu đài nếu chưa được sự cho phép của chỉ huy tiểu đoàn bảo vệ. Hiện chưa rõ chỉ huy trên làm theo lệnh của ai và người nào thực sự có quyền định đoạt chuyện đi lại của ông al-Assad. Cũng trong ngày 29.6, mạng tin tức Al Bawaba dẫn lời Tổng thống al-Assad phát biểu trên truyền hình rằng ông có trách nhiệm phải “tiêu diệt những kẻ khủng bố” để bảo vệ người dân Syria.
Đồng thời, ông cũng bác bỏ bất kỳ giải pháp nào cho cuộc khủng hoảng ở Syria do bên ngoài áp đặt. Trong một diễn biến khác, Nga vừa phủ nhận việc đưa tàu chiến và quân đội đến Syria nhằm củng cố căn cứ của họ tại cảng Tartus của nước này.
Trùng Quang
Nguồn: Thanh niên

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Thượng nghị sỹ Mỹ: Các lô dầu khí là của Việt Nam

Thượng nghị sỹ Mỹ: Các lô dầu khí là của Việt Nam


Thượng nghị sỹ Mỹ Joe Liberman. (Nguồn: Internet)
Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh cho biết quân đội nước này đã thành lập các đội tuần tra biển thường xuyên tại Biển Đông.

Học giả quốc tế khẳng định 9 lô dầu khí nằm tại VN
Nhiều học giả quốc tế khẳng định các lô dầu khí mà CNOOC mời thầu tại 9 lô trên Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.


Bình luận trước việc Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu thăm dò - khai thác tại 9 lô trên Biển Đông, Thượng nghị sỹ Mỹ Joe Liberman ngày 28/6  cho rằng đây là tuyên bố vô căn cứ và chưa hề có tiền lệ.

Ông khẳng định các lô dầu khí này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được luật pháp quốc tế thừa nhận.

Thượng nghị sỹ Liberman nói: "Đây là hành động khiêu khích, nhằm trả đũa việc Việt Nam khẳng định các quyền pháp lý của mình trong luật quốc nội vào tuần trước. Những lời lẽ khiêu khích như vậy phải chấm dứt."

Bài phát biểu của Thượng nghị sỹ Liberman được đưa ra trong ngày thứ hai của cuộc hội thảo về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Mỹ tổ chức tại Washington, trong hai ngày 27 và 28/6.

Ông cho rằng một điều thực sự quan trọng là ASEAN phải cố gắng để có được một bộ quy tắc ứng xử cho Biển Đông, nhằm làm giảm khả năng leo thang trong khu vực, cho phép giải quyết một cách hòa bình, có lợi cho tất cả các bên, theo luật quốc tế các tranh chấp trước khi nó có thể dẫn đến những hiểu lầm, luôn có khả năng khiến tình hình không chỉ dừng lại ở mức dùng lời lẽ mà trở thành bạo lực thực sự.

Về các tranh chấp trên Biển Đông, Thượng nghị sỹ Liberman cho rằng tất cả các bên cần thừa nhận rằng các bất đồng chỉ có thể giải quyết trên cơ sở luật quốc tế.

Ngược lại, ông nói, "việc cố giải quyết tranh chấp dựa trên các tuyên bố lịch sử theo kiểu đấu tay đôi là một công thức cho bất đồng triền miên, tiếp tục căng thẳng và rủi ro bạo lực."

Trước đó, trong các phiên thảo luận ngày 27/6, việc CNOOC mời thầu tại 9 lô trên Biển Đông cũng được một số học giả bàn thảo, trong đó khẳng định các lô này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam./.

Đỗ Thúy/ Washington (Vietnam+)

Trung Quốc đang bành trướng

Tại Hội nghị biển Đông ở Washington, các học giả tố cáo:
Trung Quốc đang bành trướng
TT - Căng thẳng, đối đầu giữa những quan điểm trái ngược tiếp tục là hình ảnh của cuộc thảo luận về biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tại Washington DC ngày 27-6 (ngày 28-6 giờ VN).
Các học giả trong buổi thảo luận về những diễn biến mới ở biển Đông tại hội nghị - Ảnh: Thanh Tuấn
Trong bài phát biểu khai mạc, ông Murray Hiebert, phó giám đốc Chương trình Đông Nam Á của CSIS, khẳng định biển Đông đang là “một trong những thách thức chiến lược lớn nhất của Mỹ” giữa bối cảnh châu Á đang có vai trò ngày càng quan trọng trên bản đồ chính trị thế giới.
Đến từ Trung Quốc, ông Wu Shicun, chủ tịch Viện nghiên cứu biển Đông của Trung Quốc, tiếp tục khẳng định trong những căng thẳng ở biển Đông, “trách nhiệm không thuộc về Trung Quốc”. Khẳng định này đã gây những tiếng cười phá lên từ các thành viên tham dự hội nghị. Đại diện Trung Quốc tiếp tục chỉ trích việc các nước “mở rộng, quốc tế hóa vấn đề” và việc Mỹ chuyển hướng chiến lược sang châu Á làm “ảnh hưởng xấu tới tình hình biển Đông”.
Cũng giống như cách đây một năm, phát biểu “đổ tội” của đại biểu Trung Quốc đã bị các học giả tham dự hội nghị chỉ trích dữ dội. Chuyên gia Henry S. Bensurto, cựu tổng thư ký Ủy ban về biển và đại dương của Philippines, cho rằng rõ ràng qua vụ xung đột tại bãi cạn Scarborough, Trung Quốc không hề có thiện chí. “Philippines muốn làm bạn với Trung Quốc nhưng để có thể thành bạn, chúng ta cần có sự tôn trọng lẫn nhau. Cần nhìn thẳng vào sự thật dù sự thật có đau đớn đến đâu”- ông nhấn mạnh. Nói về việc Philippines bị lực lượng quân sự Trung Quốc đe dọa, ông Bensurto nêu rõ “khi bị cưỡng bức thì chúng tôi phải lên tiếng”. Theo ông, chính sách hung hăng của Trung Quốc là nguyên nhân dẫn tới mọi căng thẳng trên biển Đông.
Đề cập ý kiến của học giả Trung Quốc chỉ trích việc các nước trên biển Đông tăng cường vũ trang, đại diện Philippines chỉ ra một thực tế: chi phí quốc phòng của Bắc Kinh đã liên tục tăng gấp nhiều lần trong hơn 15 năm qua. Cùng với gia tăng chi phí quốc phòng, Trung Quốc cũng tăng cường lấn chiếm, gây hấn trên vùng biển với Philippines. Ông dẫn chứng: Trung Quốc ngày càng lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Khoảng cách các vụ việc này ngày càng rút ngắn dần, từ 180 hải lý năm 1995 xuống 130 hải lý năm 1998, rồi 85 hải lý năm 2007 và chỉ còn 30-60 hải lý năm 2010. Ông Bensurto nói về lệnh cấm đánh cá, nếu trước đây chỉ được áp dụng với Việt Nam thì từ năm 2011 đã được Bắc Kinh áp dụng cả đối với Philippines. “Biển Đông sẽ thế nào trong vài năm tới nếu Trung Quốc tiếp tục xu hướng bành trướng này? - ông Bensurto đặt câu hỏi - Giờ là biển Đông. Liệu sau này Trung Quốc có ý định mở rộng “lãnh thổ” ra toàn bộ đất nước Philippines hay không?”.
Dựa trên những thực tế này, ông cho rằng biển Đông chỉ có thể giải quyết “trên cơ sở tôn trọng pháp luật”, và đó không phải là luật của một nước mà là luật chung được cộng đồng quốc tế công nhận. “Một quốc gia không viện luật của mình để đi bắt nạt nước khác” - ông Bensurto khẳng định.
Tại hội nghị, trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách vấn đề Đông Á Kurt Campbell cho biết biển Đông sẽ là một đề tài quan trọng trong chuyến đi của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến Campuchia tháng tới để dự Hội nghị ASEAN. Ông Campbell cho biết phía Mỹ trông đợi có thêm thông tin về dự thảo Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) trong cuộc họp ở Phnom Penh.
THANH TUẤN (từ Washington DC)
Trung Quốc muốn độc chiếm tài nguyên biển Đông
Đó là khẳng định của chuyên gia Ian Storey, biên tập viên tờ Contemporary South East Asia (Đông Nam Á đương đại), Học viện Nghiên cứu Đông Nam Á.
Ông Ian Storey - Ảnh: T.Tuấn
* Ông đánh giá thế nào về những diễn biến gần đây ở biển Đông, đặc biệt là việc Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc mời thầu ngay trên khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam?
- Đây là diễn biến nghiêm trọng ở biển Đông khi nó chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tôi nghĩ động thái này sẽ làm tăng căng thẳng giữa Trung Quốc - Việt Nam và tăng thêm lo ngại giữa các nước Đông Nam Á về ý đồ của Trung Quốc. Nó là minh chứng cho thấy Trung Quốc không chỉ muốn các đảo trong phần “đường lưỡi bò” mà còn muốn toàn bộ tài nguyên trong phần “đường lưỡi bò” này.
* Chúng ta đều biết Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý cho “đường lưỡi bò” này?
- Tôi nghĩ phần lớn đều đồng ý rằng Trung Quốc khó mà chứng minh được cơ sở pháp lý cho “đường 9 đoạn” của họ dựa trên cơ sở luật quốc tế. Nó không phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS).
T.T. thực hiện
 Nguồn: Báo Tuổi trẻ

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Trung Quốc mở thầu 9 lô dầu khí là việc làm sai trái

Không có hoạt động dầu khí nào của PVN bị ảnh hưởng

Chiều 27.6, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN (PVN) đã tổ chức họp báo, khẳng định Trung Quốc mở thầu quốc tế 9 lô dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là hoạt động sai trái.


 

Không có kế hoạch nào trong hoạt động dầu khí của VN bị ảnh hưởng bởi cái gọi là mở thầu của CNOOC, chúng tôi vẫn hoạt động bình thường

Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc PVN

Tại buổi họp báo, ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc PVN cho biết: “Từ ngày 23.6, mạng tiếng Trung và tiếng Anh của Tổng công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã công bố mời thầu 9 lô dầu khí hợp tác thăm dò khai thác trong năm 2012 với các công ty nước ngoài, tổng diện tích của khu vực này là 160.129,38 km2. Qua kiểm tra tọa độ do phía Trung Quốc công bố, các lô này nằm sâu vào thềm lục địa của VN, chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà PVN đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu nay.
Về việc này, PVN khẳng định, CNOOC đã thông báo chào thầu quốc tế tại 9 lô dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của VN.
Đây hoàn toàn không phải là khu vực có tranh chấp. Đây là việc làm sai trái, không có giá trị, trái với Công ước Liên Hiệp Quốc 1982 về luật Biển và không phù hợp với thông lệ dầu khí quốc tế. Hành động này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của VN, làm phức tạp thêm tình hình và gây căng thẳng ở biển Đông.
Tập đoàn dầu khí quốc gia VN cực lực phản đối và yêu cầu CNOOC hủy bỏ ngay hoạt động mời thầu sai trái trên, nghiêm túc tuân thủ thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982 và tinh thần tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC).

 

Trả lời câu hỏi về việc PVN sẽ có hoạt động gì làm yên lòng các nhà đầu tư nước ngoài đang hợp tác với PVN, ông Hậu nói: “Tại khu vực trên đã rất nhiều hoạt động dầu khí được tiến hành từ khoan đến thăm dò địa chấn 2D, 3D, các hoạt động thăm dò khác, chưa có khai thác dầu khí vì chưa có phát hiện thương mại. Đã một số lần các công ty dầu khí nước ngoài nhận được một vài ý kiến từ phía Trung Quốc, ví dụ Tập đoàn ONGC tại lô 128. Tôi khẳng định các nhà thầu dầu khí khi đã ký hợp đồng với PVN đều hoàn toàn hợp pháp và phù hợp với luật lệ quốc tế, nên mọi hành động tại đây đều tiến hành bình thường. Chúng tôi cũng đã làm việc với các nhà thầu để thống nhất hành động từ nay tới một vài năm tới”.

PVN đề nghị các công ty dầu khí quốc tế không tham gia dự thầu 9 lô dầu khí mà CNOOC gọi thầu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa VN. Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với Trung Quốc. PVN cũng luôn coi trọng hợp tác hữu nghị với CNOOC. Trên thực tế, PVN và CNOOC đã ký và triển khai một số thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực dầu khí. PVN hoan nghênh CNOOC và các công ty dầu khí Trung Quốc tham gia hợp tác cùng PVN trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN như đối với các đối tác nước ngoài khác. PVN và các đối tác sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động dầu khí phù hợp với các hợp đồng đã ký và luật pháp của VN. PVN sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng của VN bảo đảm cho các hoạt động này triển khai thuận lợi”.
Theo ông Hậu, trong khu vực này PVN có 4 hợp đồng dầu khí đang triển khai, với Gazprom (tổ hợp của Nga) tại lô 129 - 132, hợp đồng thứ 2 tại lô 128 với Công ty dầu khí quốc gia của Ấn Độ (ONGC), hợp đồng thứ 3 tại lô 156, 159 mà phần phía Bắc của nó dính vào 9 lô mà Trung Quốc gọi thầu, PVN đang làm việc với Exxon của Mỹ, hợp đồng thứ 4 tại lô 148, 149 PVN đã ký hợp đồng với Tổng công ty thăm dò khai thác dầu khí của VN.
Hoạt động dầu khí tại các khu vực này đã được tiến hành từ nhiều năm nay, các kế hoạch thăm dò dầu khí tại khu vực này vẫn được tiếp tục.
“PVN phản đối việc gọi thầu của CNOOC và đặc biệt, kêu gọi các công ty dầu khí nước ngoài không tham gia mời thầu, và nếu họ trong trường hợp bất chấp các ý kiến của chúng ta ký hợp đồng với Trung Quốc, PVN sẽ phản đối đến cùng và kiên quyết phản đối các hoạt động tại vùng thềm lục địa của chúng ta, và tôi tin rằng Nhà nước chúng ta sẽ không cho phép các hoạt động này”, ông Hậu nói.
Ông Hậu cho biết, PVN vẫn có mối liên hệ, có thỏa thuận hợp tác với CNOOC và “đây là lần đầu tiên CNOOC, chắc chắn được sự đồng ý của chính phủ Trung Quốc tiến hành gọi thầu như thế này”.
“Không có kế hoạch nào trong hoạt động dầu khí của VN bị ảnh hưởng bởi cái gọi là mở thầu của CNOOC, chúng tôi vẫn hoạt động bình thường”, ông Hậu khẳng định.
9 lô dàu khí 1
Bản đồ vị trí 9 lô dầu khí công ty Trung Quốc mời thầu sai trái - Ảnh: Mai Hà
Mai Hà
Nguồn: Báo Thanh niên

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

TQ: phụ nữ bị cưỡng chế phá thai 7 tháng tuổi bị chụp mũ "kẻ bán nước"

(GDVN) - Một người phụ nữ mang thai đến tháng thứ 7 còn bị “cán bộ dân số phường” hơn 30 chục người cả thảy đến tận nhà áp giải đi bệnh viện cưỡng chế phá thai, nỗi đau tinh thần và thể xác còn chưa hồi phục giờ lại bị một số người chụp cho cái mũ “bán nước”?!

Tờ QQ News, một tờ báo điện tử khá lớn tại Trung Quốc ngày hôm nay 26/6 đưa tin, gia đình chị Phùng Kiến Mai – nạn nhân của vụ cưỡng chế phá thai đã 7 tháng tuổi gây rúng động dư luận Trung Quốc vừa qua đang tiếp tục bị địa phương khủng bố tinh thần.

Chị Phùng Kiến Mai sau khi bị cưỡng chế phá thai đã 7 tháng tuổi

Vụ việc bị một số bạn trẻ phát giác, chụp hình và tải lên trên mạng internet qua các blog cá nhân của họ. Hình ảnh cho thấy một nhóm người giăng biểu ngữ ngay trước cổng nhà nạn nhân với những lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất.

“Đập cho tơi bời bọn bán nước, đuổi khỏi thị trấn Tăng Gia” là những gì nhóm người này cắt chữ dán lên băng rôn cỡ lớn đi dọc tuyến phố và dừng trước cổng nhà nạn nhân để khủng bố tinh thần.

Nhóm người được cho là chính quyền thị trấn Tăng Gia thuê để khủng bố tinh thần gia đình nạn nhân, quy chụp tội "bán nước"  sau khi họ trả lời phỏng vấn một số hãng thông tấn nước ngoài

Một người phụ nữ mang thai đến tháng thứ 7 còn bị “cán bộ dân số phường” hơn 30 chục người cả thảy đến tận nhà áp giải đi bệnh viện cưỡng chế phá thai, nỗi đau tinh thần và thể  xác còn chưa hồi phục giờ lại bị một số người chụp cho cái mũ “bán nước”?!

Sự việc trên xảy ra ngày 24/6 khi vợ chồng chị Mai từ chối nhiều lần không được và có trả lời đài phát thanh Đức phỏng vấn về chuyện đau lòng vừa mới trải qua.

Sự việc chỉ có thế, không hiểu sao nhóm người này lại gán ngay cho gia đình chị cái tội “bán nước” tày đình ấy, đồng thời liên tục khủng bố, uy hiếp tinh thần gia đình họ.

Nhóm người này đi khắp phố giăng biểu ngữ, miệng liên tục chửi bới gia đình nạn nhân là "bán nước"

Thậm chí, anh Nguyên chồng chị đã bị buộc phải rời khỏi thị trấn Tăng Gia trong khi vợ mình vẫn còn chưa hoàn toàn bình phục.
Cát Thái, tên một bloger chụp hình và tải lên mạng cảnh nhóm người này khủng bố tinh thần gia đình nạn nhân cho hay, những người này là do chính quyền địa phương thị trấn Tăng Gia tổ chức.
Không chỉ kéo băng rôn chụp mũ, buộc tội gia đình chị Mai mà còn liên tục chửi bới họ là “đồ bán nước”. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, những hành động tội ác của những kẻ gọi là “cán bộ dân số” còn chưa bị trừng trị mà nạn nhân đã liên tục gặp tai ương.

Hồng Thủy (nguồn QQ)
Nguồn: GDVN
Lời bình: Dùng côn đồ để trị dân! Sao giống thế

Trung Quốc mời thầu tại thềm lục địa VN là phi pháp


 

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ, việc phía Trung Quốc ngang nhiên mời thầu quốc tế tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là hành động phi pháp và không có giá trị.
Trước việc ngày 23/6/2012, Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc thông báo chào thầu quốc tế tại 09 lô dầu khí nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, ngày 26/06/2012, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ: "Trước hết cần khẳng định khu vực mà Tổng Công ty dầu khí hải dương Trung Quốc thông báo mở thầu quốc tế nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây hoàn toàn không phải là khu vực có tranh chấp."
Ông Lương Thanh Nghị khẳng định, việc phía Trung Quốc ngang nhiên mời thầu quốc tế tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là hành động phi pháp và không có giá trị, xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia chính đáng của Việt Nam, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà chính Trung Quốc là quốc gia thành viên, làm phức tạp tình hình và gây căng thẳng ở Biển Đông.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh, Việt Nam cực lực phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc hủy bỏ ngay việc mời thầu sai trái trên, không có hành động làm phức tạp tình hình ở Biển Đông và mở rộng tranh chấp, nghiêm túc tuân thủ Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)./.

Nguồn: (Vietnam+)
Lời bình: Rõ ràng TQ ngày càng tỏ ra tham lam,côn đồ "Đây hoàn toàn không phải là khu vực có tranh chấp" Thế mà chúng lại nhập nhằng mời thầu . Chúng ta cần phải có những phản ứng mạnh hơn,chứ không cần cái kiểu phát ngôn một cách vô cảm mãi được

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Thư giãn cuối tuần



Ông A bật diêm xem xăng còn hay hết. Xăng còn. Nạn nhân thọ 49 tuổi.

*
Có một người tên là Vui. Một hôm tự nhiên người đó trúng gió chết.
Gia đình theo sau vừa khóc vừa than :" Ối giời ơi! Vui ơi là Vui...."

*
Hoàng tử vừa sặc nước vừa la :
"Cứu ta hỡi người đẹp, ta sẽ tặng nàng 1 đống quần áo LV xịn !!!!!!".
Nàng tiên cá nhìn chàng hoàng tử bằng cặp mắt long lanh truyền cảm rồi nói :"Không, em ở truồng quen rồi!"

*
Cô giáo đọc chính tả cho học sinh chép: "Cô gái dẫn anh lính về làng..." (ngừng 1 lúc) xong chửa".....

*
Vợ ngủ mơ, hét "chồng em về đấy". Chồng phóng luôn qua cửa sổ. (Quên mặc quần áo, hahaha)...

*
Bàn chải đánh răng đau khổ:
- Đôi lúc mình thấy cái nghề của mình là tệ nhất thế giới.
Giấy vệ sinh hét:
- Nghĩ lại đi anh bạn!

*
Nhà khoa học Mỹ đã phát minh ra máy bắt trộm rất hiện đại họ mang qua Mỹ thử nghiệm
30 phút, máy bắt được 500 tên, đem qua Trung Quốc trong vòng 10 phút máy bắt được 6000 tên.
Sau đến VN, Họ chờ mãi ko thấy tín hiệu 5, 10, 30 phút, họ đi ra kiểm tra thì...cái máy đã bị trộm mất.

*
Bạn bè bảo tôi là thằng cô đơn vì tôi khong có bạn gái.
Nhưng tôi cũng đã từng có người con gái the cùng tôi sống chết có nhau : "Không trả nợ cho bà, bà thề sống chết với mày".
Cũng từng có người con gái cùng tôi hẹn ước đến kiếp sau : "Muốn cua chị mày hả? Đợi kiếp sau đi cưng ".
Và từng có người con gái cam lòng tự nguyện vì tôi mà chết : "Cái gì? Làm bạn gái ông? Tui thà chết còn hơn" ....
Nghĩ lại tôi thấy mình cũng đào hoa quá !!!

*
Vợ hỏi chồng: Anh ơi, anh yêu em vì khuôn mặt xinh đẹp hay thân hình gợi cảm của em?
Chồng: (nhìn từ đầu xuống chân vợ) Anh yêu cái tính hài hước của em đấy

*
Thưở trung nguyên kiếm hiệp.. 1 anh vớ được 1 quyển bí kíp võ công..anh giở ra và ngay trang đầu có ghi: nếu muốn học đc môn võ này..người phải thiến..
Vì khao khát muốn được làm minh chủ võ lâm anh ta chấp nhận..
Sau khi thiến xong giở trang sau thì có ghi tiếp: nhưng không thiến thì cũng cũng không sao..
...Về sau môn võ này được lưu truyền với cái tên "uất ức thần chưởng"


*
Một cô gái ngồi sau xe ôm vừa đi đường vừa ngắm cảnh rồi nói với lái xe: "Mới có 15 năm mà Sài Gòn thay đổi nhiều quá".
Anh xe ôm tưởng vớ được Việt kiều liền hỏi:
- Ủa, cô ở Mỹ hay là đâu mới về vậy?
- Dạ không anh, em mới ra tù được mấy hôm. Hồi đó em đi cướp xe ôm.
*
Trong giờ giảng của một giáo viên tiểu học
Thầy: Đố các em sắp xếp các từ sau thành một câu có nghĩa:
Thầy, đố, nên, không, mày, làm .
Trò: (trả lời nhanh nhảu) Làm thầy mày không nên đố.

Mẹ vắng nhà
*
Hai oan hồn gặp nhau trong nghĩa trang.
- Sao mày chết?
- Tao bị chết cóng. Mới đầu thì tay chân tao đông cứng, đau nhức vô cùng, nhưng sau đó thì tao thiếp đi, chết êm ả. Còn mày?
- Tại vợ tao ngoại tình.
- Vợ mày ngoại tình mắc mớ gì mày chết?
- Tao biết nó ngoại tình nên một hôm tao về nhà đột xuất. Tao thấy nó nằm trong giường không mặc quần áo.
Tức quá, tao chạy xuống hầm, không thấy tình nhân nó, tao chạy lên gác xép, cũng không thấy ai, tao đang chạy ra nhà kho thì bị lên cơn đau tim, chết. Thằng ma kia nói:
- Thằng ngu si, nếu mày kiếm trong tủ lạnh thì tao với mày đâu có chết.

*
Trong một trường mẫu giáo, thằng bé hỏi cô giáo: Cô ơi, con nít có bầu được không cô?
Cô giáo nói: Con nít không có bầu được con ạ!
Thằng bé quay sang con bé bên cạnh: Đó, cưng thấy chưa. Cứ lo lắng lung tung.

Tiễn biệt Gà Gô Loa
*Đắt hay Rẻ.
Một cặp vợ chồng vào tiệm thuốc tây hỏi mua Viagra. Ông chồng hỏi khẽ dược sĩ:
- 1 viên viagra bao nhiêu thế cô ?
Dược sĩ đáp với vẻ lạnh lùng:
- 10$ 1 viên, miễn trả giá.
Ông chồng nghe thấy thế liền la toáng lên:
- Sao mắc thế, những 10$ cho 1 viên viagra là qúa mắc!
Bà vợ đứng bên cạnh nghe thấy bèn nói:
- 20$/ một năm mà còn mắc cái gì nữa !!!


* Ngủ & thức
Vợ hỏi:
- Anh đã ngủ với bao nhiêu người đàn bà??
Chồng trả lời ngon lành:
- Chỉ có mình em yêu! Với tất cả người khác anh.... đều thức.

* Quá rành
Hai anh cảnh sát nói chuyện với nhau. Anh cảnh sát kinh tế nói:
- Tôi chỉ cần quét mắt vô biển số các xe là biết xe nào từ tỉnh lên, tư nhân hay là nhà nước.
Anh cảnh sát giao thông cười:
- Vậy là xưa rồi. Tôi chỉ cần coi lái xe điều khiển xe qua ổ gà, ổ nước, ổ điện... lập tức biết ngay xe nào của tư hay của công.

* Thí dụ cụ thể
Một đôi vợ chồng đi chèo thuyền. Vốn lo xa, anh chồng bèn dạy vợ cách chèo.
- Em hãy cầm lấy mái chèo. Giả vờ như anh bị một cơn đau tìm bất thình lình, em hãy tự mình đưa thuyền vào bến nhé!
Cô vợ làm theo và thuyền cập bến an toàn. Tối hôm ấy, khi vừa về nhà, thấy anh chồng đang xem tivi, cô vợ nói:
- Anh yêu, giả vờ như em bị một cơn đau tim bất thình lình, anh hãy chuẩn bị bữa tối, dọn bàn ăn và rửa bát nhé!
.
Thảm hại, VTV
* Muốn và Có
Phóng viên phỏng vấn một cụ già:
- Thưa cụ, xin cụ cho biết vì sao cụ chưa bao giờ có ý định lập gia đình?
- Vô cùng dễ hiểu: Tôi thà suốt đời muốn cái mình không có còn hơn có cái mình không muốn!

* Sự thực
Bà nọ gọi điện cho bác sĩ
- Tôi cầu xin ngài, bác sĩ! Chồng tôi đang trên đường đến chỗ ông để khám mắt. Xin ông làm ơn đừng cho chồng tôi đeo kính. Cuộc hôn nhân của chúng tôi kể từ 10 năm nay rất là hạnh phúc!
*Say xỉn
 Anh chồng say xỉn suốt ngày bà vợ thấy chồng đi nhậu về đành mắn.
- Ngày nào ông cũng say xỉn, uống kiểu gì kỳ vậy?
- Bà nghĩ gì mà nói tôi say?
- Ông không say thì đếm bao nhiêu viên gạch ( nền nhà lót ghạch men viên đen viên trắng)
- Đếm thì đếm, tôi sợ bà à, nhưng để nó đứng lại chứ nó chạy tròn tròn làm sao tôi đếm được hả ?
- Bó tay.com

Định nghĩa
 1/ Chết trong chùa gọi là Tự Tử.
2/ Chết một cách lãng xẹt gọi là Lãng Tử.
3/ Bị chấy rận cắn chết gọi là Chí Tử.
4/ Bị điện giật mà chết gọi là Điện Tử.
5/ Đi ăn yến tiệc, đi "tè" mà chết gọi là Tiểu Yến Tử.
6/ Chết đuối gọi là Giang Tử.
7/ Chết ở nông trại gọi là Trang Tử.
8/ Người to lớn mà chết gọi là Khổng Tử.
9/ Không ốm đau mà chết gọi là Mạnh Tử.
10/ Chết khi mọi việc đã hoàn tất gọi là Chu Tử.
11/ Cha chết gọi là Phụ Tử, mẹ chết gọi là Mẫu Tử.
12/ Em chết gọi là Đệ Tử, vợ chết gọi là Thê Tử.
13/ Chồng leo núi mà chết gọi là La Sơn Phu Tử.
14/ Thầy giáo chết gọi là Sư Tử.
15/ Học trò chết gọi là Sĩ Tử.
16/ Chết khi còn nhỏ gọi là Tiểu Tử.
17/ Quân lính chết gọi là Quân Tử.
18/ Bị đánh bầm dập mà chết gọi là Nhừ Tử.
19/ Chết mà bị chặt ra từng khúc gọi là Thái Tử.
20/ Bị lạnh, thiếu áo mặc mà chết gọi là Hàn Mặc Tử.
21/ Bị cảm mà chết gọi là Cảm Tử.
22/ Nhiều người cùng chết gọi là Đồng Tử.
23/ Chết vì tò mò gọi là Thám Tử.
24/ Chết trong yên bình gọi là Yên Tử.
25/ Chết khi sinh con gọi là Sinh Tử.
26/ Chết mà thân thể còn nguyên gọi là Nguyên Tử.
27/ Chết mà thân thể không còn nguyên gọi là PhânTử.
28/ Chết chậm chạp từng phần gọi là Phần Tử.

Chôm bên nhà Tễu

Sưu tầm trên internet